Cô Bé Thượng Ngàn là vị tiên cô trên tòa Sơn Trang, theo hầu mẫu Thượng Ngàn. Cô Bé Thượng Ngàn là một tiên cô nổi tiếng rất hay về ngự đồng. Cô Bé Thượng Ngàn có một số đền thờ riêng, nhưng chủ yếu được phối thờ ở các cung hay lầu cô ở các đền phủ.
Thực sự tìm hiểu về Đạo Mẫu là một việc rất khó khăn, nhưng tôi cũng cố gắng lượm lặt để viết lên Blog này để tỏ lòng thành kính với Đạo Mẫu.
Trang
▼
Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2016
Cô Sáu Lục Cung
Cô Sáu Lục Cung hay còn gọi là Cô Sáu Sơn Trang. Cô là người hầu cận Chầu Lục nên được gọi là Cô Sáu Lục Cung. Các tài liệu về Cô Sáu không nhiều. Cô bé Lục Cung được phối thờ tại Đền Lục Cung Hữu Lũng - Lạng Sơn. Nơi đây được coi là nơi thờ chính của Cô.
Động Sơn Trang thờ ai
Có lẽ tại hầu hết đền, phủ đều có cung thờ Sơn Trang. Cung Sơn Trang (hay còn gọi Động Sơn Trang) thường được bài trí là một động đá có Chúa Sơn Trang và các Cô Sơn Trang ngự.
Thứ Tư, 27 tháng 4, 2016
Cô Bé Cây Xanh Bắc Giang
Cô Bé Cây Xanh Bắc Giang được thờ tại Đền Cô Bé Cây Xanh, nằm trong Khu Du lịch Tâm linh Suối Mỡ. Đền Cô Bé Cây Xanh nằm cách Đền Hạ Suối Mỡ chừng 2 km.
Quan Hoàng Bơ - Quan Hoàng Ba
Quan Hoàng Ba, còn gọi là Quan Hoàng Bơ có đền thờ tại Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hóa. Đây là một ngôi đền nhỏ, uy nghiêm nhìn ra một dòng sông. Đây được coi là một trong các đền thờ chính của Ngài. Nhiều người cho rằng Ngài không giáng trần nên không có chính từ hay vọng từ.
Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016
Chúa Cà Phê
Đền Chúa Cà Phê thờ Chúa Cà Phê nằm ở Phố Vị - Hữu Lũng - Lạng Sơn. Hiện nay, đường đến Đền Chúa Cà Phê rất dễ dàng, xe ô tô đi rất tốt không như trước đây. Ngôi đền vẫn giữ được dáng cổ và khá uy nghi.
Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016
Đền Quan Lớn Tuần Tranh
Tên đầu đủ: Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh. Ngoài ra còn gọi Quan Lớn Tuần, Quan Tuần, Quan Tuần Tranh. Quan Lớn Tuần Tranh là Quan thứ năm trong Ngũ vị Tôn Ông.
Tước phong: Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần – Cao Lỗ đại vương – Đệ ngũ Tuần Tranh.
Nhiệm vụ: Ngọc Hoàng ban cho Ngài thống lĩnh thiên địa binh, thay quyền tam tứ phủ đại diện cho con người (nhân vi chúa tể), thu chấp kim ngân tài mã, giải oan nghiệp sớ cho trần gian.
Tam Quan đền Quan Lớn Tuần Tranh ở Ninh Giang |
Thân thế: Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, hay còn gọi là Ông Lớn Tuần Tranh. Ông là con trai thứ năm của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông cũng giáng dưới thời Hùng Định Vương (Hùng Triều Thập Bát), trong một gia đình ở phủ Ninh Giang (nay là Hải Dương), ông cũng là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong công hầu. Tại quê nhà, ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp, người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ của quan huyện ở đó, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh “chồng chung”, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Vậy nên Quan Lớn Tuần Tranh vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan huyện kia biết chuyện, vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình. Quan Tuần Tranh bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, ông đã tự sát mong rửa oan, chứng tỏ mình vô tội, ông hoá xuống dòng sông Kì Cùng. Về lại nơi quê nhà, ông hiện thành đôi bạch xà, thử lòng ông bà nông lão, sau đó được ông bà nông dân nuôi nấng như thể con mình. Nhưng khi quan phủ biết chuyện ông bà nông lão tậu gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và giết chết đôi rắn kia đi. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội. Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.
Đền Quan lớn Tuần Tranh ở Lạng Sơn |
Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy đứng trong hàng năm của Ngũ Vị Tôn Ông, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự). Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.
Đền thờ chính thờ Quan Lớn Tuần Tranh
Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất:
+ Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương. Đây là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích.
+ Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng, qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày). Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.
Một sự tích khác về Quan Lớn Tuần Tranh
Theo truyền thuyết, ngày xưa lưu truyền tại khu vực Đền Ninh Giang ngày nay: Ngày xưa ở làng Lạc Dục, huyện Tứ Kỳ có hai vợ chồng nhà nghèo, đã già mà chưa có con. Một hôm người chồng cuốc vườn bắt được ở cạnh bụi cây 2 quả trứng, ngỡ là trứng chim nên đem đi cất cẩn thận. Ngờ đâu, 2 quả trứng nở thành 2 con rắn. Người vợ sợ quá, định đem giết đi nhưng người chồng không nghe, nói rằng có lẽ trời cho ta khuây khỏa cảnh già đây. Quả nhiên, hai con rắn quấn quýt với 2 vợ chồng ông già. Một hôm ông cuốc đất, 1 con nhảy vào đùa nghịch, bị ông cuốc cụt đuôi (Về sau khi linh ứng, dân làng lập miếu thờ, gọi là miếu Ông Cộc, Ông Dài). Nhưng phải một nỗi, 2 con rắn ấy chỉ ăn gà thôi. Ông già đi ăn trộm gà cho chúng ăn nhiều rồi, sau sợ hàng xóm biết thì phải tội nên đành phải mang 2 con rắn vứt xuống sông Tranh. Chỗ vứt 2 con rắn ấy về sau sóng xoáy dữ lắm. Một hôm có bà công chúa muốn qua sông nhưng nớưc xoáy dữ, thuyền không qua được. Sau theo lời quan, dân sở tại đòi 2 vợ chông ông già đến hỏi chuyện. Bà lão sợ quá, bèn lấy 2 nắm cơm vứt xuống sông và nói rằng "con ơi, con có thương mẹ thì đừng nổi sóng nữa để mẹ khỏi tội". Bà vừa nói xong thì sóng yên lặng.
Về sau có ông quan phủ tên là Trịnh Thường Quân được bổ về Ninh Giang. Ông lấy một người vợ lẽ đẹp lắm. Một hôm bà đi chơi thuyền trên sông Tranh, gặp một người dưới nước lên đòi lấy bà làm vợ. Bà nhất định không nghe. Đêm về, đang ngủ, bỗng lại thấy người đó hiện vào phòng, nhất định đòi lấy. Bà đem chuyện này nói với quan Phủ. QUan Phủ cũng lấy làm lạ nên phòng giữ cẩn thận. Một hôm ngài có việc quan đi vắng, đến luúc về thì thấy buồng không. Quan Phủ lấy làm phiền lắm, bèn từ chức, ngày ngày ra bờ sông Tranh tìm vợ. Sau gặp một ông Tiên tên là Quỷ Cốc ở miền Hải Quốc mách rằng bà Phủ đã bị Hoàng tử thứ 5 của Vua Thủy bắt xuống làm vợ rồi. Tiên Quỷ Cốc nghĩ thương tình quan Phủ nên giúp sức cho xuống được điện Vua Thủy mà kêu, Tiên cũng kêu hộ. Sau Vua Thủy cho cả hai vợ chồng về rồi bắt Hoàng tử thứ 5 đem đày ra sông Tranh. Từ đó dân ở 2 bên bờ thấy có nhiều điều kỳ dị nên lập đền thờ, gọi là đền Tranh. Dân quanh bến hoặc thuyền bè xuôi ngược qua đây nếu gặp sóng gió đều kêu cầu, sóng gió sẽ êm. Ai có cầu kiểu gì cũng đều linh ứng. Thỉnh thoảng những đêm trong sáng, có người trông thấy một thanh niên mũ áo từ trong đền đi ra. Người ta liền kháo nhau, đó là Quan lớn Tuần Tranh. Về sau, do có nhiều công giúp dân buôn thuyền, bán bè, qua sông bình an, may mắn nên vị thần được tôn là: Quan "đệ ngũ Tranh Giang Hoàng hợp tôn thần". Đền Tranh có tiếng linh thiêng, cầu việc gì được việc ấy nên khách đến lễ ngày càng đông...
Quần thể Du lịch tâm linh Đền Suối Mỡ
Đền Suối Mỡ bao gồm đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng, nằm dọc theo dòng suối Mỡ đều thờ Công chúa Quế Mỵ Nương, con gái vua Hùng Vương thứ 16 ( hiện thân của Thánh Mẫu Thượng Ngàn); nằm trong khu du lịch Suối Mỡ thuộc địa phận xã Nghĩa Phượng, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Ba đền này cùng với các đền khác tạo nên khu Quần thể Đền Suối Mỡ.
Chúa Nguyệt Hồ
Chúa Nguyệt Hồ còn gọi là Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ hay Chúa Bói Nguyệt Hồ. Gọi Chúa Nguyệt Hồ là Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ bởi Chúa là chúa thứ hai trong Tam vị Chúa Mường. Ngoài ra, Chúa Nguyệt Hồ còn gọi là Nguyệt Nga Công chúa.
Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2016
Quan Hoàng Năm
Có ý kiến cho rằng Quan Hoàng Năm không giáng trần nên không có đền thờ chính. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng Quan Hoàng Năm giáng trần đó là thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Công Chất. Nếu như vậy, Đền Quan Hoàng Năm tức là đền thờ Hoàng Công Chất tại thành Bản Phủ - Thành Phố Điện Biên.
Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016
Phủ Tổ - Nơi thờ Vương Phụ, Vương Mẫu của Mẫu Liễu Hạnh
Phủ Tổ còn gọi là Khải Thánh Đài tọa tại thôn Vân Cát trong quần thể tâm linh Phủ Dầy. Phủ tổ còn được gọi là Phủ Đá có lẽ bởi bởi kiến trúc phía trước đền đều được sử dụng bằng đá. Đây là nơi thờ phụng Vương Phụ Lê Đức Chính và Vương Mẫu Trần Thị Phúc - Đó là hai vị đã sinh hạ ra Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Hiện nay sắc phong Vương Phụ và Vương Mẫu vào năm Khải Định 1924 đã được tìm thấy.
Nơi đây theo truyền thuyết nơi đây là quê chính của Mẫu Liễu, tức nơi Thánh Mẫu được giáng trần lần thứ hai.
Hiện nay cung trong ở giữa thờ phật, hai bên thờ Vương Phụ, Vương Mẫu sinh ra Mẫu Liễu. Cung thứ hai thờ Tam toà Thánh Mẫu. Cung ngoài cùng ở giữa thờ Đức Thánh Trần, còn một bên thờ Trần triều Vương Cô, một bên thờ bát hương bản mệnh.
Phủ Tổ được sửa chữa lớn vào năm 1943. Trong kháng chiến chống Pháp Phủ Tổ đã bị ném bom hư hỏng nặng. Di tích này mới được tu sửa đưa vào sử dụng năm 1993.
Tại hội thảo do UBND huyện Ý Yên và Trung tâm Nghiên cứu Bảo toàn Văn Hóa tín ngưỡng Việt nam dựa trên cơ sở các thư tịch cổ các nhà khoa học khẳng định di tích Phủ Quảng Cung - Thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Huyện Ý Yên chính là nơi ghi dấu cuộc giáng sinh đầu tiên của Thánh mẫu Liễu Hạnh. Tại Phủ Dầy cũng có dâu đối nhắc đến với đôi câu đối chữ hán được tạm dịch như sau:
"Ba kiếp giáng trần, ở Vỉ Nhuế, ở Vân Cát, ở Nga Sơn, Sòng (Sơn) - Lạng (Sơn) - Tây Hồ, hơn năm trăm năm ngời sử sách.
Các triều phong tặng, là Đế nữ, là Đại vương, là Thánh mẫu, là Thánh - Thần - Tiên Phật, ngàn năm vạn thuở rạng non sông".
Tuy nhiên, Phủ Quảng Nạp lại là một nơi mà theo thánh tích chính là nơi giáng sinh đầu tiên của Thánh mẫu Liễu Hạnh thì lại ít người biết đến
Theo huyền tích lần giáng sinh lần thứ nhất của Mẫu Liễu: Mẫu Liễu lúc đó có tên là Phạm Tiên Nga là con của cụ Phạm Huyền Viên và bà Đoàn Thị Hằng ở thôn Vỉ nhuế, Ý Yên, Nam Định ngày nay.
Phạm Tiên Nga, mất ngày 2 tháng 3 năm Quý tị (1473), khi bà tròn 40 tuổi. Sau khi bà mất nhân dân đã lấp đền thờ tại ngôi nhà cũ - nay là Phủ Đại La Tiên Từ, còn tại quê ngoại của bà cũng được lập đền thờ với tên gọi Phủ Quảng Cung.
+ Giáng trần lần thứ hai:
Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557), bà lại giáng sinh lần thứ hai làm con ông Lê Đức Chính ( còn gọi là Lê Thái Công) và bà Trần Thị Phúc tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ (nay là Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định, cách quê cũ Vị Nhuế chừng 7 km). Do ông Lê Thái Công nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng mà ông mơ trước đó nên đặt tên cho con là Lê Giáng Tiên.
Năm 18 tuổi, nàng kết duyên cùng Đào Lang, là con nuôi của một vị quan trí sĩ ở cùng làng, sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hoà. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày, Bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Thiên Hương – Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.
+ Giáng trần lần thứ 3:
Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần gian lần nữa. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Liễu Hạnh gặp chồng, con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây… Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi.
+ Những vân du thiên hạ của Mẫu Liễu:
Khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.
- Hóa phép thành cô giá bán hàng ở Đèo Ngang - Quảng Bình với huyền tích cuộc chiến Đèo Ngang. Vì thế ở Đèo Ngang có đền Thờ Liễu Hạnh Công Chúa.
- Sau Đèo Ngang, Thánh mẫu đã vân du ra phía bắc. Tại Đồng Đăng - Lạng Sơn, Mẫu đã gặp Phùng Khắc Khoan cùng nhau xướng họa làm thơ ( Di tích đền Mẫu Đồng Đăng) . Một năm sau, Mẫu gặp lại Phùng Khắc Khoan tại Tây Hồ. (Di tích là Phủ Tây Hồ).
- Năm 1609, Thánh Mẫu tái hợp với Đào Lang - người chông kiếp trước ở Nghệ An. Khi con được 5 tuổi, Mẫu lại được Ngọc Hoàng triệu về tiên giới. (Có tài liệu cho rằng Thánh Mẫu tái hợp với chồng cũ ở Sòng Sơn- Thanh hóa. (Di tích đền Mẫu Sòng Sơn)
- Do nhớ cõi trần, Mẫu lại xin Ngọc Hoàng trở về cõi trần gian. Lần này, mẫu giáng về Phố Cát. Tại đây đã có cuộc chiến của Mẫu với quân triều đình. Cũng tại đây Mẫu đã quy y cửa Phật.
Nơi đây theo truyền thuyết nơi đây là quê chính của Mẫu Liễu, tức nơi Thánh Mẫu được giáng trần lần thứ hai.
Hiện nay cung trong ở giữa thờ phật, hai bên thờ Vương Phụ, Vương Mẫu sinh ra Mẫu Liễu. Cung thứ hai thờ Tam toà Thánh Mẫu. Cung ngoài cùng ở giữa thờ Đức Thánh Trần, còn một bên thờ Trần triều Vương Cô, một bên thờ bát hương bản mệnh.
Phủ Tổ được sửa chữa lớn vào năm 1943. Trong kháng chiến chống Pháp Phủ Tổ đã bị ném bom hư hỏng nặng. Di tích này mới được tu sửa đưa vào sử dụng năm 1993.
Về các nơi giáng trần của Thánh Mẫu Liễu Hạnh
+ Giáng trần lần thứ nhất:Tại hội thảo do UBND huyện Ý Yên và Trung tâm Nghiên cứu Bảo toàn Văn Hóa tín ngưỡng Việt nam dựa trên cơ sở các thư tịch cổ các nhà khoa học khẳng định di tích Phủ Quảng Cung - Thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Huyện Ý Yên chính là nơi ghi dấu cuộc giáng sinh đầu tiên của Thánh mẫu Liễu Hạnh. Tại Phủ Dầy cũng có dâu đối nhắc đến với đôi câu đối chữ hán được tạm dịch như sau:
"Ba kiếp giáng trần, ở Vỉ Nhuế, ở Vân Cát, ở Nga Sơn, Sòng (Sơn) - Lạng (Sơn) - Tây Hồ, hơn năm trăm năm ngời sử sách.
Các triều phong tặng, là Đế nữ, là Đại vương, là Thánh mẫu, là Thánh - Thần - Tiên Phật, ngàn năm vạn thuở rạng non sông".
Tuy nhiên, Phủ Quảng Nạp lại là một nơi mà theo thánh tích chính là nơi giáng sinh đầu tiên của Thánh mẫu Liễu Hạnh thì lại ít người biết đến
Theo huyền tích lần giáng sinh lần thứ nhất của Mẫu Liễu: Mẫu Liễu lúc đó có tên là Phạm Tiên Nga là con của cụ Phạm Huyền Viên và bà Đoàn Thị Hằng ở thôn Vỉ nhuế, Ý Yên, Nam Định ngày nay.
Phạm Tiên Nga, mất ngày 2 tháng 3 năm Quý tị (1473), khi bà tròn 40 tuổi. Sau khi bà mất nhân dân đã lấp đền thờ tại ngôi nhà cũ - nay là Phủ Đại La Tiên Từ, còn tại quê ngoại của bà cũng được lập đền thờ với tên gọi Phủ Quảng Cung.
+ Giáng trần lần thứ hai:
Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557), bà lại giáng sinh lần thứ hai làm con ông Lê Đức Chính ( còn gọi là Lê Thái Công) và bà Trần Thị Phúc tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ (nay là Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định, cách quê cũ Vị Nhuế chừng 7 km). Do ông Lê Thái Công nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng mà ông mơ trước đó nên đặt tên cho con là Lê Giáng Tiên.
Năm 18 tuổi, nàng kết duyên cùng Đào Lang, là con nuôi của một vị quan trí sĩ ở cùng làng, sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hoà. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày, Bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Thiên Hương – Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.
+ Giáng trần lần thứ 3:
Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần gian lần nữa. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Liễu Hạnh gặp chồng, con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây… Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi.
+ Những vân du thiên hạ của Mẫu Liễu:
Khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.
- Hóa phép thành cô giá bán hàng ở Đèo Ngang - Quảng Bình với huyền tích cuộc chiến Đèo Ngang. Vì thế ở Đèo Ngang có đền Thờ Liễu Hạnh Công Chúa.
- Sau Đèo Ngang, Thánh mẫu đã vân du ra phía bắc. Tại Đồng Đăng - Lạng Sơn, Mẫu đã gặp Phùng Khắc Khoan cùng nhau xướng họa làm thơ ( Di tích đền Mẫu Đồng Đăng) . Một năm sau, Mẫu gặp lại Phùng Khắc Khoan tại Tây Hồ. (Di tích là Phủ Tây Hồ).
- Năm 1609, Thánh Mẫu tái hợp với Đào Lang - người chông kiếp trước ở Nghệ An. Khi con được 5 tuổi, Mẫu lại được Ngọc Hoàng triệu về tiên giới. (Có tài liệu cho rằng Thánh Mẫu tái hợp với chồng cũ ở Sòng Sơn- Thanh hóa. (Di tích đền Mẫu Sòng Sơn)
- Do nhớ cõi trần, Mẫu lại xin Ngọc Hoàng trở về cõi trần gian. Lần này, mẫu giáng về Phố Cát. Tại đây đã có cuộc chiến của Mẫu với quân triều đình. Cũng tại đây Mẫu đã quy y cửa Phật.
Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2016
Phủ Bóng - Nguyệt Du Cung
Phủ Bóng hay còn gọi là Đền Cây Đa Bóng, hay Phủ Bóng - Nguyệt Du Cung. Đây được coi là một trong các di tích chính về Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Phủ Bóng - Nguyệt Du Cung thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định trong quần thể di tích tâm linh Phủ Dầy. Quần thể di tích Tâm Linh Phủ Dày được coi là cái nôi của Đạo Mẫu Việt Nam.
Phủ Bóng - Nguyệt Du Cung nằm ngay bên Lăng Thánh Mẫu.
Phủ Bóng - Nguyệt Du Cung nằm ngay bên Lăng Thánh Mẫu.
Thần tích về Phủ Bóng- Nguyệt Du Cung
Thánh Mẫu vốn là Công Chúa thứ hai của Ngọc Hoàng vì lỡ tay đánh rơi vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần gian. Lần đầu Thánh Mẫu giáng sinh xuống Vỉ Nhuế, Ý Yên, Nam Định. Lần thứ hai, Thánh Mẫu giáng sinh ở Vân Cát trong gia đình ông Lê Thái Công và vợ là Trần Thị Phúc vào năm 1557. Tên của Mẫu lúc đó là Lê Giáng Tiên. Giáng Tiên từ thủa bé đã nổi tiếng về cầm kỳ thi họa. Năm 18 tuổi kết duyên cùng Trần Đào Lang. Năm 21 tuổi, Giáng Tiên mãn hạn giáng trần, không bệnh, không tật mà mất.
Thân xác của Giáng Tiên đã được nhân dân an táng tại cồn cây tươi tốt tại cánh đồng xứ Cây Đa. Ở trên thượng giới, Tiên Chúa vẫn ngày đêm khắc khoải không sao quên được tình nghĩa trần gian, Ngọc Hoàng biết chuyện, thương tình phong cho nàng là Liễu Hạnh công chúa và cho phép nàng được thăm lại chốn cũ người xưa ở trần gian.
Cũng từ đó, vào những đêm trăng sáng đầy trời Liễu Hạnh công chúa lại dẫn một đoàn tiên nữ xuống quây quần múa hát bên gốc cây đa. Dân làng thầm lặng dõi theo dần dần nhận ra đây là điềm linh thiêng, linh ứng mới bàn nhau lập miếu thờ dưới gốc cây đa nên thường gọi là đền Cây Đa Bóng hay Phủ Bóng. Sau đó những người thường thấy Tiên Chúa và tiên nữ múa hát dưới trăng lại đặt tên đền là Nguyệt Du Cung
Tam Quan Phủ Bóng |
Lịch sử Phủ Bóng - Nguyệt Du Cung
Ngôi Phủ này có chính xác từ bao giờ thì chưa rõ, nhưng có lẽ ít nhất cũng khoảng 200 năm. Thủ nhang của đền hiện nay cho biết thì giá đình đã có đến 5 đời phụng sự ngôi đền.
Ngôi đền này trước đây chỉ là một ngôi đền nhỏ, đến thời vua Thành Thái ( 1889 – 1906) cụ Đồng quan Trần Vũ Thực đã để tâm xây dựng và mở rộng. Đền Cây Đa Bóng – Nguyệt Du Cung bấy giờ đã có điện thờ nguy nga, tráng lệ có lầu chuông cao đẹp, tượng Thánh Mẫu được đúc bằng đồng, bát hương chuông đồng, chống đồng to đẹp tráng lệ…
Trải qua các cuộc chiến tranh, ngôi đền đã bị tàn phá và xuống cấp chỉ còn lại nền móng. Nhiều năm trở lại đây với tâm huyết bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vốn cổ của cha ông, Ban Quản lý nhà đền đã trùng tu xây dựng ngôi đền rất khang trang to đẹp tạo điều kiện cho khách thập phương về chiêm ngưỡng thăm viếng.
Kiến trúc Phủ Bóng - Nguyệt Du Cung
Nguyệt Du Cung là một công trình kiến trúc tâm linh, tố hảo, khang trang với 4 cung trùng thềm điệp ốc. Phía ngoài sân đền là Tam Quan mái cong hoành tráng, với lầu chuông thật uy nghi.
Nhiều người từng nói: Đền Phủ Dày mà chưa đến đền Cây Đa Bóng-Nguyệt Du Cung thì coi như chưa đến Phủ Dầy. Phủ Bóng - Nguyệt Du Cung đã hòa quyện được cả hai yếu tố lễ hội và du lịch mang lại cho khách thập phương những cảm thức về tâm linh và tinh thần văn hóa để có thể linh cảm được những thời khắc giao thoa giữa trời và đất, giữa Thánh Mẫu với con người.
Theo các nhà Phong thuỷ học nhận xét khu di tích địa linh này là một chốn linh thiêng : Phía trước Đền là tiền đường có hướng chầu vào khu lăng mộ Đức Thánh Mẫu, phía đằng sau dựa vào đỉnh núi Côi, hai bên tả hữu đều có Thanh Long, Bạch Hổ cân bằng. Bên tả Thanh Long có thế uốn lượn hiền hoà, ôm bao. Hữu Bạch Hổ có thế cao đầy, vun vút. Nhìn từ xa xa Đền Phủ Bóng – Nguyệt Du Cung trông giống hệt như một chiếc Ngai Quan lớn rất vững trãi và uy nghi nằm ở ngay trung tâm của Quần thể Di tích Tâm linh Phủ Dày.
Các cổ vật tại Phủ Bóng - Nguyệt Du Cung
Trong đền còn lưu giữ một số hiện vật cổ rất quý giá từ thời Lê, thời Nguyễn. Có thể kể đến pho tượng Mẫu cổ bằng đồng, cao khoảng 60 cm. Hiện pho tượng này được đặt tại cung Mẫu Đệ Nhất; Một Chiếc trống đồng cổ được đúc theo kiểu trống da, có tang và đai trống, nhưng âm thanh chẳng khác gì trống đồng Đông Sơn. Chiếc trống này được đúc thời Vua Thành Thái, tức năm Giáp Thìn (1904) do tri phủ Nguyễn Hưng Trần Tướng Công cùng phu nhân cống tiến. Đặc biệt, tại đền còn lưu giữ hai tấm bia đá xanh ngọc bích tựa đề “Nguyệt Du cung bi ký” đều khắc vào năm Bảo Đại thứ 4 (1929). Ngoài ra, trong đền có một số cổ vật quý như đôi chéo có khắc chữ chìm, bát hương lớn bằng sứ cao 50 cm, in chìm dòng chữ “Tiên Hương – Nguyệt Du Cung”…
Hiện trong đền còn có một số câu đối cổ. Chẳng hạn:
Thiên bản địa linh lưu Thánh tích
Nguyệt du thuỷ hoạt tố tuyên nguyên.
Dịch nghĩa:
Thiên Bản đất thiêng in dấu Thánh
Nguyệt Du nước chảy dõi nguồn tiên.
Hay câu đối:
Mẫu Nghi vọng trọng Côi Sơn Thạch
Tử dục đàm ân vị Thuỷ ba.
Dịch nghĩa:
Dáng hình Mẫu sừng sững như đỉnh Non Côi
Tình thương con tràn trề tựa sóng sông Vị
Lăng Thánh Mẫu
Lăng Thánh Mẫu là một di tích không tách rời với Phủ Bóng- Nguyệt Du Cung. Nơi đây, trước đây dân trong làng mỗi khi có bệnh thường ra đây hai lá bẻ cành về sao vàng rồi sắc nước uống nên rất nhiều người đã khỏi bệnh. Thời Minh Mệnh (1820 – 1840) quan huyện Vụ Bản cho người xây gạch quanh ngôi mộ cổ nhưng chỉ xây một bệ nhỏ cho mọi người đến đặt lễ. Năm 1938, vua Bảo Đại đã cho “Hội xuân kinh” triều đình Huế tiến hành hưng công xây dựng khu lăng Mẫu.
Lăng Thánh Mẫu |
Tương truyền năm 1937, Vua Bảo Đại lấy vợ đã lâu nhưng không có con nên Nam Phương Hoàng Hậu đến cầu tự ở Đền Sòng và được Mẫu ban cho Hoàng Tử Bảo Long. Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã báo mộng cho Hoàng Hậu biết mộ của mình ở ngôi Miếu xứ cây đa Phủ Dầy. Để trả ơn đó Vua Bảo Đại đã cho dựng lăng để tạ ơn Mẫu Liễu Hạnh. Theo học giả Trần Đăng Ngọc thì: “Năm 1938 Vua Bảo đại đã cho “hội xuân Kinh” triều đình Huế tiến hành hưng công xây dựng khu lăng Mẫu hoàn toàn bằng đá xanh và 60 búp sen hồng”.
Đền Mẫu Đông Cuông thờ Mẫu Thượng Ngàn
Đền Mẫu Đông Cuông thờ Mẫu Thượng Ngàn tọa lạc tại xã Đông Cuông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Đây được coi là đền thờ chính của Mẫu Thượng Ngàn. Mẫu Thượng Ngàn là chúa cai quản miền rừng xanh - Là Mẫu Đệ Nhị trong Tam Tòa Thánh Mẫu.
Lịch sử Đền Mẫu Đông Cuông
Đền Mẫu Đông Cuông có từ thời nhà Trần. Lịch sử sơ khai của đền mang dấu ấn của các cuộc chiến tranh chống quân Nguyên, chống Pháp và cuộc chiến tranh biên giới 1979. Vì vậy, nơi đây còn thờ các anh hùng miền sơn cước trong các cuộc chiến giặc ngoại xâm.Cũng như Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn được thờ ở khá nhiều nơi trên vùng rừng núi. Nếu Mẫu Liễu Hạnh có sự tích với rất ít dị bản còn Mẫu Thượng Ngàn có khá nhiều dị bản khác nhau.
Một số đền thờ Mẫu Thượng Ngàn
Ngoài đền thờ Mẫu Thượng Ngàn tại Đông Cuông; Mẫu Thượng Ngàn còn được thờ ở khu Quần thể du lịch tâm linh đền Suối Mỡ; ở các đền mẫu ở Tuyên quang, Lạng Sơn...
PHỦ TIÊN HƯƠNG - KHU QUẦN THỂ TÂM LINH PHỦ DẦY
Phủ Tiên Hương thuộc thôn Tiên Hương, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định; nằm cạnh đường giao thông liên xã. Phủ Tiên Hương là phủ chính trong quần thể di tích Phủ Dầy và cũng là nơi thờ chính của Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Tại thôn Vân Cát có gia đình ông Lê Thái công, vợ là Trần Thị Phúc ăn ở hiền lành, chuyên lo việc thiện đức. Họ chính là đầu thai chuyển thế của cha mẹ họ Phạm của Mẫu ở Vỉ Nhuế năm xưa.
Khi hơn 40 tuổi, bà mới mang thai lần hai. Kỳ lạ là lần này đến kỳ mang thai này bà ông ăn được thịt cá, chỉ ăn hoa quả. Quá kỳ sinh nở mấy tháng mà không thấy sinh, ông Lê Thái Công tưởng ma quỷ nhiễu hại bèn mời thầy phù thủy về trừ tà nhưng bà vẫn không sinh.
Một ngày thượng tuần tháng tám, đêm thanh trăng tỏ, có một đạo nhân ăn mặc lạ kì xin vào chữa bệnh, Lê Thái công nghe thấy liền mời vào, thiết lập hương án, đạo nhân xõa tóc hành pháp, rồi rút búa trong tay ném xuống đất, Thái công tức thì mê man và thiếp đi và trong khi đó ông đã mơ thấy được lên Thiên đường và thấy một nàng công chúa mặc xiêm y thanh thoát, hình dung sáng chói lỡ tay đánh rơi vỡ một chiếc chén ngọc. Khi tỉnh mộng thì đã lúc canh tàn, bà đã sinh ra một nữ tử, hương thơm ngào ngạt, ai ai cũng lấy làm vui mừng, lúc đó đạo nhân biến mất lúc nào không hay.
Khi đó là giờ Dần ngày 15 tháng 8 năm Đinh Tỵ niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên triều vua Lê Anh Tông (1557). Ông Thái công mới đặt Tiên chúa tên Thắng hiệu Giáng Tiên.
Giáng Tiên lớn lên trở thành một người con gái sắc đẹp tuyệt trần, nết na ưa nhìn, hiền lành thục nữ, trần gian hiếm có người nào như vậy. Không những vậy kinh văn sách sử, học vấn của Người cũng uyên thâm khó bậc nam nhi nào sách so được. Cầm, kì, thi, họa mọi thứ Người đều am tường thấu tỏ tường tận.
Một hôm nhân nghe tiếng đàn của Tiên chúa gẩy, chợt Thái công nhớ tiếng đàn này giống tiếng đàn năm xưa khi ông nằm mộng lên Thiên đình, nghĩ con gái mình chắc chắn là người nhà trời, sợ rằng sẽ khó nuôi, nên đem cho ông Trần Công làm nghĩa nữ.
Có hai vợ chồng ông Trần lão quan gần làng bên, không con cháu, một hôm dạo chơi gió mát trăng thanh, tự nhiên thấy ai bỏ một đứa trẻ ở bên gốc đào, ông Trần lão quan mới đem về nuôi đặt tên là Trần Đào Lang.
Đến năm Quý Dậu (1573) Gia Thái nguyên niên triều Lê Thế Tông, chàng Đào Lang 21 tuổi, đức Tiên chúa 17 tuổi, nhân lúc Trần Đào Lang sang nhà Trần lệnh công, thấy Tiên chúa đẹp tuyệt trần lại tài hoa vẹn đủ mới đem lòng yêu mến, mới đến cầu hôn.
Thoạt đầu, Tiên chúa không ý định thành hôn, chỉ muốn ở với mẹ cha phụng dưỡng, nhưng sau đó cha mẹ vun vào, và cũng cảm mến chàng Đào hiếu học, Tiên chúa đồng ý và hôn lễ được tác thành khi Tiên chúa 18 tuổi.
Về gia đình chồng, luôn giữ phép với cha mẹ chồng, giữ đạo vợ chồng, cuộc sống hạnh phúc và hai người đã khai sinh ra một nam tử đặt tên Trần Nhân, cảnh gia đình thật vui vầy sướng ca.
Nhưng mãn hạn cõi trần gian, Tiên chúa không bệnh mà mất, hưởng dương được 21 tuổi, Chúa hồi loan vào giờ Dần ngày 03 tháng 03 năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái ngũ niên triều vua Lê Thế Tông (1577).
Bỗng nhiên một cơn gió mát thổi đến, bà bừng tỉnh rồi thấy Tiên chúa hiện thân ôm lấy bà mà khóc, lúc đó Lê Thái công và hai ông bà Trần Công cùng người anh Lê Lục thấy vậy vội vã chạy vào nửa mừng nửa lo, chàng Đào Lang cũng vừa bồng con trên tay vừa than khóc thê lương.
Tiên chúa mới gạt nước mắt tâu rằng: “Con là Thiên tiên, chẳng phải người phàm, không phải không muốn ở cùng phụ mẫu song thân và phu quân, huynh đài, con cái, nhưng vì Thiên mệnh không khác, mong mọi người chớ sầu bi ai oán, công đức cao vời gia đình đều có Tiên tịch, mong ngày sớm hội ngộ mọi người chốn Thiên cung”
Dặn dò xong xuôi, Tiên chúa lạy tạ gia đình, lưu luyến mãi không dứt, xong rồi Tiên chúa biến mất.
Đào Lang càng thương nhớ Tiên chúa, việc học dở dang, con cái nheo nhóc, Tiên chúa động lòng ray rứt không nguôi, ngày đêm đều ngóng trông về nhà xưa quê cũ, thấy Trần Đào như vậy Tiên chúa lại một lần nữa hiện thân.
Đang ru con ngủ, Đào Lang thấy có tiếng gọi, chàng đứng dậy nhìn, nửa mờ nửa tỏ thấy Tiên chúa đã hiện ngay trước mặt mình, chàng níu áo Tiên chúa mà khóc, Tiên chúa an ủi: “Ta là Thiên tiên, chàng cũng mang Thiên tộc, nhân duyên tiền định, ắt sẽ gặp lại, không bao lâu nữa, Ta với chàng sẽ lại tái hợp” Tiên chúa lại nhờ Đào lang thường xuyên viếng thăm cha mẹ đôi bên của Tiên chúa, nuôi dạy con cái thật tốt, giữ trọn phần làm con. Nói xong Tiên chúa biến mất.
Sau này, sau khi giúp chồng thành đạt, Mẫu Liễu bắt đầu vân du thiên hạ. Chiến tích lớn nhất của Mẫu là trận chiến với quân quan triều đình ở Đèo Ngang. Còn có thần tích về hai lần Thánh Mẫu đối chữ, họa thơ với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau này, Mẫu có quy y nhà Phật. Có lẽ vì thế mà Đạo Mẫu Việt Nam và Đạo Phật luôn song hành trong đời sống tâm linh của người Việt Nam chúng ta.
Phủ chính Tiên Hương được triều đình cho phép xây lập đền thờ Năm Dương Hoà thứ 8 (1642)lúc đó phủ còn hết sức đơn sơ. Từ thời Lê Cảnh Trị (1663 – 1671) đến năm 1841 được chuyển thành công trình gạch ngói. Năm Duy Tân thứ chín (1915) do tổng đốc Đoàn Triển cho xây dựng lớn như ngày nay. Phủ Tiên Hương tuy qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được dấu tích của phủ cổ trước kia.
Hiện nay, Phủ chính Tiên Hương còn lưu giữ 15 đạo sắc phong thần cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đạo sớm nhất ghi ngày 10 tháng chạp năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730) phong Thánh Mẫu là Mã Vàng Công Chúa thượng đẳng thần, muộn nhất là đạo sắc ghi ngày 25/7/1924, năm Khải Định cửu niên phong Đức Thánh đệ Tam – Ngọc nữ Quang cung Quế Anh. Trong Phủ chính Tiên Hương còn lưu giữ nhiều cổ vật ghi rõ đây là phủ chính thờ Mẫu tại nơi Mẫu đầu thai. Đó là chiếc ấn đồng cổ đúc từ hàng trăm năm trước, trên ấn có hai chữ Hán ở lưng ấn: Phủ chính, nhiều cổ vật sứ cổ được khắc chữ nhấn mạnh đây là đồ tế tự của phủ chính…
Tiếp tới ba phương đình là một hồ bán nguyệt, xuống hồ bán nguyệt có hai cầu được lát bằng đá, đối xứng qua hồ, bên phải là nhà bia và lầu Cậu, bên trái là nhà bia và lầu Cô.
Toàn khu phủ thờ ở Phủ Tiên Hương là sự liên kết của nhiều dãy nhà được nối liền với nhau. Trong một dãy nhà có sự phân chia thành nhiều gian riêng và gọi đó là một cung. Từ ngoài vào phía trước mặt gồm có những cung sau:
Đầu tiên là cung Đệ Tứ thờ Tứ phủ công đồng hay còn gọi là ban Công Đồng. Đối xứng với cung Đệ Tứ bên trái là Ban Quan lớn Thủ phủ và bên phải là Ban Chầu Thủ phủ.
Tiếp theo là Ban thờ Đức Vua cha Ngọc Hoàng và Hội Đồng các quan hay Ngũ vị vương quan. Đây là cung Đệ Tam.
Sau cung Đệ Tam là cung Đệ nhị. Cung này thờ Tứ Vị Chầu bà và ba bộ long ngai.
Cung Đệ nhất là cung thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Cung này ở trong cùng. Tuy nhiên, đa phần nơi thờ Mẫu Tứ phủ có nội cung (cung cấm).
Nội cung của Phủ Tiên Hương có khám kính đặt tượng đồng Mẫu Liễu Hạnh cùng với hai Mẫu Quang cung Quế Anh phu nhân và Quỳnh cung Duy Tiên phu nhân đều được phong thần và sắc phong. Nội cung không phải ai cũng được vào và vào bất cứ lúc nào. Chỉ được vào khi có sự đồng ý của những người trong ban quản lý phủ và những ngày có lễ hội.
Bên cạnh dãy nhà thờ những cung chính còn có một dãy nhà được gọi là Ban Trần Triều. Trong dãy nhà này có đặt ban thờ Ban Trần Triều và Ban Đức Vương Phụ, Vương Mẫu.
Phía sau dãy nhà chính là Động Sơn Trang, nơi này thờ bà Chúa Đệ Nhị Thượng ngàn Hai Chầu và mười hai cô Sơn Trang.
Thành ngữ dân gian một số nơi ở miền Bắc có câu:
Phủ Tiên Hương được coi là phủ chính của Mẫu Liễu Hạnh và thờ bên chồng của Mẫu, còn phủ Vân Cát và Phủ Tổ là nơi thờ Mẫu và bên ngoại (bên bố mẹ đẻ) của Mẫu. Phủ Bóng Nguyệt Du Cung là nơi sau khi Mẫu hóa, Mẫu hay vân du trở về.
Phủ Tiên Hương cùng với Phủ Vân Cát, Phủ Bóng- Nguyệt Du Cung, Phủ Tổ, Lăng Thánh Mẫu tạo thành cụm thánh tích về Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Đền chính của Phủ Tiên Hương |
Thần tích về Mẫu Liễu Hạnh
Mẫu Liễu Hạnh có 3 lần giáng sinh, tóm tắt như sau:- Lần thứ nhất Mẫu giáng sinh vào nhà họ Phạm ở Quảng Nạp, Vỉ Nhuế, Ý Yên Nam Định. Bà có tên Phạm Tiên Nga và hưởng thọ 40 tuổi. Nơi đây, hiện nay có Phủ Quảng Cung gắn liền với sự tích giáng sinh lần thứ nhất của Mẫu.
- Lần thứ hai bà giáng vào nhà họ Lê ở An Thái, Vụ Bản, Nam Định. Bà kết duyên cùng Trần Đào Lang, đến năm 21 tuổi thì về trời; Nơi đây chính là khu tâm linh Phủ Dầy.
- Lần thứ ba bà giáng hiện tại Nga Sơn, Thanh Hóa hạ trần để tái hợp cùng Mai Sinh là hậu kiếp của Trần Đào Lang được hơn một năm thì mãn hạn hồi tiên.
Lầu trước Phủ Thiên Hương
Thần tích về lần giáng sinh thứ hai của Mẫu Liễu Hạnh
Tại thôn Vân Cát có gia đình ông Lê Thái công, vợ là Trần Thị Phúc ăn ở hiền lành, chuyên lo việc thiện đức. Họ chính là đầu thai chuyển thế của cha mẹ họ Phạm của Mẫu ở Vỉ Nhuế năm xưa.
Khi hơn 40 tuổi, bà mới mang thai lần hai. Kỳ lạ là lần này đến kỳ mang thai này bà ông ăn được thịt cá, chỉ ăn hoa quả. Quá kỳ sinh nở mấy tháng mà không thấy sinh, ông Lê Thái Công tưởng ma quỷ nhiễu hại bèn mời thầy phù thủy về trừ tà nhưng bà vẫn không sinh.
Một ngày thượng tuần tháng tám, đêm thanh trăng tỏ, có một đạo nhân ăn mặc lạ kì xin vào chữa bệnh, Lê Thái công nghe thấy liền mời vào, thiết lập hương án, đạo nhân xõa tóc hành pháp, rồi rút búa trong tay ném xuống đất, Thái công tức thì mê man và thiếp đi và trong khi đó ông đã mơ thấy được lên Thiên đường và thấy một nàng công chúa mặc xiêm y thanh thoát, hình dung sáng chói lỡ tay đánh rơi vỡ một chiếc chén ngọc. Khi tỉnh mộng thì đã lúc canh tàn, bà đã sinh ra một nữ tử, hương thơm ngào ngạt, ai ai cũng lấy làm vui mừng, lúc đó đạo nhân biến mất lúc nào không hay.
Khi đó là giờ Dần ngày 15 tháng 8 năm Đinh Tỵ niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên triều vua Lê Anh Tông (1557). Ông Thái công mới đặt Tiên chúa tên Thắng hiệu Giáng Tiên.
Giáng Tiên lớn lên trở thành một người con gái sắc đẹp tuyệt trần, nết na ưa nhìn, hiền lành thục nữ, trần gian hiếm có người nào như vậy. Không những vậy kinh văn sách sử, học vấn của Người cũng uyên thâm khó bậc nam nhi nào sách so được. Cầm, kì, thi, họa mọi thứ Người đều am tường thấu tỏ tường tận.
Phủ Tiên Hương ngày lễ hội |
Có hai vợ chồng ông Trần lão quan gần làng bên, không con cháu, một hôm dạo chơi gió mát trăng thanh, tự nhiên thấy ai bỏ một đứa trẻ ở bên gốc đào, ông Trần lão quan mới đem về nuôi đặt tên là Trần Đào Lang.
Đến năm Quý Dậu (1573) Gia Thái nguyên niên triều Lê Thế Tông, chàng Đào Lang 21 tuổi, đức Tiên chúa 17 tuổi, nhân lúc Trần Đào Lang sang nhà Trần lệnh công, thấy Tiên chúa đẹp tuyệt trần lại tài hoa vẹn đủ mới đem lòng yêu mến, mới đến cầu hôn.
Thoạt đầu, Tiên chúa không ý định thành hôn, chỉ muốn ở với mẹ cha phụng dưỡng, nhưng sau đó cha mẹ vun vào, và cũng cảm mến chàng Đào hiếu học, Tiên chúa đồng ý và hôn lễ được tác thành khi Tiên chúa 18 tuổi.
Về gia đình chồng, luôn giữ phép với cha mẹ chồng, giữ đạo vợ chồng, cuộc sống hạnh phúc và hai người đã khai sinh ra một nam tử đặt tên Trần Nhân, cảnh gia đình thật vui vầy sướng ca.
Nhưng mãn hạn cõi trần gian, Tiên chúa không bệnh mà mất, hưởng dương được 21 tuổi, Chúa hồi loan vào giờ Dần ngày 03 tháng 03 năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái ngũ niên triều vua Lê Thế Tông (1577).
Chuyện Mẫu Liễu Hạnh hiển linh sau khi hóa
Tiên chúa về chốn Thiên cung, trần duyên chưa hết, trong lòng còn bồi hồi không nguôi, được ba ngày trên Thiên giới, tức là 3 năm dưới hạ, vừa vào dịp đại tường của Tiên chúa (tức năm Kỷ Mão Quang Hưng nhị niên Vua Lê Thế Tôn 1579), một hôm bà Trần Thị (vợ ông Lê Thái công) vào phòng của Tiên chúa khi xưa thấy lòng đau dạ xót, nước mắt chứa chan rồi ngất đi.Bỗng nhiên một cơn gió mát thổi đến, bà bừng tỉnh rồi thấy Tiên chúa hiện thân ôm lấy bà mà khóc, lúc đó Lê Thái công và hai ông bà Trần Công cùng người anh Lê Lục thấy vậy vội vã chạy vào nửa mừng nửa lo, chàng Đào Lang cũng vừa bồng con trên tay vừa than khóc thê lương.
Tiên chúa mới gạt nước mắt tâu rằng: “Con là Thiên tiên, chẳng phải người phàm, không phải không muốn ở cùng phụ mẫu song thân và phu quân, huynh đài, con cái, nhưng vì Thiên mệnh không khác, mong mọi người chớ sầu bi ai oán, công đức cao vời gia đình đều có Tiên tịch, mong ngày sớm hội ngộ mọi người chốn Thiên cung”
Dặn dò xong xuôi, Tiên chúa lạy tạ gia đình, lưu luyến mãi không dứt, xong rồi Tiên chúa biến mất.
Đào Lang càng thương nhớ Tiên chúa, việc học dở dang, con cái nheo nhóc, Tiên chúa động lòng ray rứt không nguôi, ngày đêm đều ngóng trông về nhà xưa quê cũ, thấy Trần Đào như vậy Tiên chúa lại một lần nữa hiện thân.
Đang ru con ngủ, Đào Lang thấy có tiếng gọi, chàng đứng dậy nhìn, nửa mờ nửa tỏ thấy Tiên chúa đã hiện ngay trước mặt mình, chàng níu áo Tiên chúa mà khóc, Tiên chúa an ủi: “Ta là Thiên tiên, chàng cũng mang Thiên tộc, nhân duyên tiền định, ắt sẽ gặp lại, không bao lâu nữa, Ta với chàng sẽ lại tái hợp” Tiên chúa lại nhờ Đào lang thường xuyên viếng thăm cha mẹ đôi bên của Tiên chúa, nuôi dạy con cái thật tốt, giữ trọn phần làm con. Nói xong Tiên chúa biến mất.
Sau này, sau khi giúp chồng thành đạt, Mẫu Liễu bắt đầu vân du thiên hạ. Chiến tích lớn nhất của Mẫu là trận chiến với quân quan triều đình ở Đèo Ngang. Còn có thần tích về hai lần Thánh Mẫu đối chữ, họa thơ với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Sau này, Mẫu có quy y nhà Phật. Có lẽ vì thế mà Đạo Mẫu Việt Nam và Đạo Phật luôn song hành trong đời sống tâm linh của người Việt Nam chúng ta.
Hồ bán nguyệt trước Phủ Tiên Hương |
Lịch sử Phủ Tiên Hương
Phủ Tiên Hương được xây dựng từ thời Lê – Cảnh Trị (1663 – 1671) và đã qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn còn dấu tích của phủ cổ trước kia. Năm 1996 Phủ Tiên Hương đã được sửa chữa lớn.Phủ chính Tiên Hương được triều đình cho phép xây lập đền thờ Năm Dương Hoà thứ 8 (1642)lúc đó phủ còn hết sức đơn sơ. Từ thời Lê Cảnh Trị (1663 – 1671) đến năm 1841 được chuyển thành công trình gạch ngói. Năm Duy Tân thứ chín (1915) do tổng đốc Đoàn Triển cho xây dựng lớn như ngày nay. Phủ Tiên Hương tuy qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được dấu tích của phủ cổ trước kia.
Hiện nay, Phủ chính Tiên Hương còn lưu giữ 15 đạo sắc phong thần cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đạo sớm nhất ghi ngày 10 tháng chạp năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730) phong Thánh Mẫu là Mã Vàng Công Chúa thượng đẳng thần, muộn nhất là đạo sắc ghi ngày 25/7/1924, năm Khải Định cửu niên phong Đức Thánh đệ Tam – Ngọc nữ Quang cung Quế Anh. Trong Phủ chính Tiên Hương còn lưu giữ nhiều cổ vật ghi rõ đây là phủ chính thờ Mẫu tại nơi Mẫu đầu thai. Đó là chiếc ấn đồng cổ đúc từ hàng trăm năm trước, trên ấn có hai chữ Hán ở lưng ấn: Phủ chính, nhiều cổ vật sứ cổ được khắc chữ nhấn mạnh đây là đồ tế tự của phủ chính…
Kiến trúc và các cung thờ Phủ Tiên Hương
Khi đến phủ này, từ xa có thể nhìn thấy rõ vì phủ rất rộng. Từ ngoài bước vào chúng ta gặp ngay một giếng tròn mang ý nghĩa tụ thủy để tụ phúc, giữa giếng tròn là một ụ đất làm nơi cắm cờ mỗi khi mùa hội tới. Cán cờ là một cây tre hoặc một cây gỗ cao được dựng đứng lên, đầu cây buộc một túm lá hoặc một con quạ gỗ với ý nghĩa là thiên sứ của nhà trời. Cùng với túm lá (con quạ gỗ) là lá cờ thần lớn được treo lên đó. Tiếp đó là một sân lớn là nơi khi mùa hội tới là nơi sẽ biểu diễn xếp chữ và bán hàng lưu niệm. Sau sân lớn là ba phương đình với phương du ở giữa và hai bên phương đình làm nơi gác chuông, gác trống.Tiếp tới ba phương đình là một hồ bán nguyệt, xuống hồ bán nguyệt có hai cầu được lát bằng đá, đối xứng qua hồ, bên phải là nhà bia và lầu Cậu, bên trái là nhà bia và lầu Cô.
Toàn khu phủ thờ ở Phủ Tiên Hương là sự liên kết của nhiều dãy nhà được nối liền với nhau. Trong một dãy nhà có sự phân chia thành nhiều gian riêng và gọi đó là một cung. Từ ngoài vào phía trước mặt gồm có những cung sau:
Đầu tiên là cung Đệ Tứ thờ Tứ phủ công đồng hay còn gọi là ban Công Đồng. Đối xứng với cung Đệ Tứ bên trái là Ban Quan lớn Thủ phủ và bên phải là Ban Chầu Thủ phủ.
Động Sơn Trang Phủ Tiên Hương |
Tiếp theo là Ban thờ Đức Vua cha Ngọc Hoàng và Hội Đồng các quan hay Ngũ vị vương quan. Đây là cung Đệ Tam.
Sau cung Đệ Tam là cung Đệ nhị. Cung này thờ Tứ Vị Chầu bà và ba bộ long ngai.
Cung Đệ nhất là cung thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Cung này ở trong cùng. Tuy nhiên, đa phần nơi thờ Mẫu Tứ phủ có nội cung (cung cấm).
Nội cung của Phủ Tiên Hương có khám kính đặt tượng đồng Mẫu Liễu Hạnh cùng với hai Mẫu Quang cung Quế Anh phu nhân và Quỳnh cung Duy Tiên phu nhân đều được phong thần và sắc phong. Nội cung không phải ai cũng được vào và vào bất cứ lúc nào. Chỉ được vào khi có sự đồng ý của những người trong ban quản lý phủ và những ngày có lễ hội.
Bên cạnh dãy nhà thờ những cung chính còn có một dãy nhà được gọi là Ban Trần Triều. Trong dãy nhà này có đặt ban thờ Ban Trần Triều và Ban Đức Vương Phụ, Vương Mẫu.
Phía sau dãy nhà chính là Động Sơn Trang, nơi này thờ bà Chúa Đệ Nhị Thượng ngàn Hai Chầu và mười hai cô Sơn Trang.
Thần tích Mẫu Liễu Hạnh
Lễ hội Phủ Dày
Hội Phủ Dầy được tổ chức hàng năm vào tháng 3 âm lịch. Lễ hội nhằm tổ chức nghi lễ, thắp hương biết ơn bà chúa Liễu Hạnh. Cùng thời điểm này, bà Chúa Liễu Hạnh cũng được thờ tại nhiều lễ hội khác trên Việt Nam, nhưng hội Phủ Dầy thuộc vào loại long trọng nhất, với sự tham gia của đông đảo dân chúng.Lễ hội Phủ Dầy |
Thành ngữ dân gian một số nơi ở miền Bắc có câu:
Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ
Cha là Đức thánh Trần Hưng Đạo, còn Mẹ chính là bà Chúa Liễu Hạnh.Cụm di tích tâm linh Phủ Dầy
Quần thể tâm linh Phủ Dầy bao gồm hơn 20 di tích gắn liền với cuộc đời bà chúa Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ 2. Trong đó, kiến trúc quan trọng nhất là Phủ chính Tiên Hương, Phủ Vân Cát và Lăng bà chúa Liễu Hạnh. Ngoài ra, còn có Phủ Bóng (Đền Cây Đa Bóng), phủ Giáp Ba, phủ Bất Di, đền Công Đồng, phủ Đá, phủ Nội, phủ Tổ (Khải Thánh), đền Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai, đền Mẫu Thượng, đền Mẫu Thoải, đền Trình, đền Đức Vua, đền Quan Lớn, đền Mẫu Đông Cuông, đền thờ Lý Nam Đế, chùa Dần, chùa Gôi, chùa Vân Cát, chùa Tiên Hương, chùa Linh Sơn...Lăng Mẫu Liễu Hạnh |
Phủ Tiên Hương được coi là phủ chính của Mẫu Liễu Hạnh và thờ bên chồng của Mẫu, còn phủ Vân Cát và Phủ Tổ là nơi thờ Mẫu và bên ngoại (bên bố mẹ đẻ) của Mẫu. Phủ Bóng Nguyệt Du Cung là nơi sau khi Mẫu hóa, Mẫu hay vân du trở về.
Phủ Tiên Hương cùng với Phủ Vân Cát, Phủ Bóng- Nguyệt Du Cung, Phủ Tổ, Lăng Thánh Mẫu tạo thành cụm thánh tích về Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Phủ Dầy và Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Phủ Dầy là một quần thể di tích tâm linh gắn liền đến sự giáng sinh lần thứ hai của mẫu Liễu Hạnh. Quần thể di tích tâm linh này nằm chủ yếu tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Phủ Dầy là một quần thể di tích lịch sử văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia từ năm 1975.
Lầu trong khuôn viên Phủ Tiên Hương |
Tại sao nơi đây có tên là Phủ Dầy
Phủ Dày còn gọi là Phủ Giầy hay Phủ Giày). Mỗi tên gọi được gắn với những huyền thoại khác nhau về vùng đất.
- Phủ Giầy xuất phát từ truyền thuyết Bà Chúa Liễu Hạnh vì quá nhớ thương gia đình, chồng con nên đã để lại một chiếc giầy ở trần gian trước khi về thượng giới hoặc có huyền thoại: Vua đi qua vùng này và nghỉ đêm ở quán hàng của bà chúa Liễu Hạnh, sau đó được tặng một đôi giầy nên đã lập nơi thờ tự và gọi đó là Phủ Dầy.
- Khi gọi Phủ Dầy còn vì chính nơi này có món bánh dày – giò nổi tiếng, lại có người cho rằng: Kẻ Dày xuất phát từ nơi có gò đất nổi lên hình bánh dầy trước cửa phủ.
Cảnh Phủ Tiên Hương |
Theo sử sách thì Phủ Dầy ngày nay bắt nguồn từ tên một làng cổ là “Kẻ giầy”. Nơi đó, vào thời vua Tự Đức ( 1860) được chia là hai thôn: Vân Cát và Tiên Hương.
Như vậy, Vân Cát là nơi Mẫu được sinh ra, Tiên Hương là quê chồng và là nơi chôn cất Mẫu Liễu Hạnh. Như vậy, Phủ Dầy chính là "cái nôi" Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ hai.
Quần thể di tích tâm linh Phủ Dầy
Quần thể di tích tâm linh Phủ Dầy có đến 19 di tích tâm linh, chủ yếu liên quan đến Mẫu Liễu Hạnh. Tuy nhiên, tại Phủ Dầy có ba di tích lớn gắn liền với thần tích Mẫu Liễu Hạnh. Tiêu biểu là Phủ Tiên Hương, Phủ Vân Cát và Lăng Mẫu Liễu. Những di tích này cũng là di tích trực tiếp thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Ngoài ra, còn hơn chục đền phủ, chùa chiền có liên quan đến Mẫu Liễu Hạnh.
Cửa Ngọ Môn Phủ Vân Cát |
Ngoài ba địa điểm chính trên Quần thể Di tích Tâm Linh Phủ Dày còn có các di tích tâm linh sau:
1. Đền thờ Mẫu Đông Cuông (Mẫu Thượng Ngàn): Đền nằm ngay sát đường chính.
2. Đền Quan Lớn: Đền nằm dưới chân núi Ngắm . Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam
3. Đền Đức Vua Cha: Đường vào chân núi.
4. Đền Chầu Đệ Tứ: Nằm trên đường chính.
5. Đền Mẫu Thoải và Cô Chín: Nằm trên đường từ Phủ Bóng Vân Du đi vào Phủ Vân cát
6. Đền Mẫu Thượng: Đền nằm trên núi.
7. Đền Trình Phủ Dày: Nằm trên đường chính về phía đường 10.
8. Đền Trình Phủ Tiên Hương: Nằm trên đường vào Phủ Tiên Hương.
9. Phủ Bóng Nguyệt Du Cung: Nằm cạnh Lăng Thánh Mẫu.
Ngoài ra, chúng ta có thể đến 2 chùa lớn là:
1. Chùa Tiên Hương: Ngôi chùa lớn nhất quần thể đã cơ bản được trung tu xong với kiến trúc hết sức độc đáo.
2. Chùa Linh Sơn: Ngôi chùa cổ nằm trên núi.
Phủ Tiên Hương
Quần thể di tích Tâm Linh phủ Dầy có đến 4 địa điểm chính thờ Mẫu Liễu Hạnh. Phủ Tiên Hương được coi là nơi thờ chính của Mẫu Liễu Hạnh, là nơi thờ Mẫu và bên chồng của Mẫu. Phủ Vân Cát là nơi thờ Mẫu và bên ngoại của Mẫu (bên bố mẹ đẻ). Phủ Bóng Nguyệt Du cung là nơi hiển linh của Mẫu sau khi hóa. Lăng Mẫu là nơi quàn của Mẫu sau khi về trời. Như vậy, có thể coi Phủ Tiên Hương là nơi thờ chính của Mẫu Liễu Hạnh.
Phủ Tiên Hương |
Phủ chính Tiên Hương được triều đình cho phép xây lập đền thờ 1642. Lúc đó phủ còn hết sức đơn sơ. Từ thời Lê Cảnh Trị (1663 – 1671) đến năm 1841 được chuyển thành công trình gạch ngói. Năm Duy Tân thứ chín (1915) do tổng đốc Đoàn Triển cho xây dựng lớn như ngày nay. Phủ Tiên Hương tuy qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được dấu tích của phủ cổ trước kia.
Hiện nay, Phủ chính Tiên Hương còn lưu giữ 15 đạo sắc phong thần cho Thánh Mẫu Liễu Hạnh, đạo sớm nhất ghi ngày 10 tháng chạp năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730) phong Thánh Mẫu là Mã Vàng Công Chúa thượng đẳng thần, muộn nhất là đạo sắc ghi ngày 25/7/1924, năm Khải Định cửu niên phong Đức Thánh đệ Tam – Ngọc nữ Quang cung Quế Anh. Trong Phủ chính Tiên Hương còn lưu giữ nhiều cổ vật ghi rõ đây là phủ chính thờ Mẫu tại nơi Mẫu đầu thai. Đó là chiếc ấn đồng cổ đúc từ hàng trăm năm trước, trên ấn có hai chữ Hán ở lưng ấn: Phủ chính, nhiều cổ vật sứ cổ được khắc chữ nhấn mạnh đây là đồ tế tự của phủ chính…
Phủ Vân Cát
Đền được xây dựng từ thời vua Lê Cảnh Thịnh (1663 - 1671). Khoảng đời Cảnh Thịnh (1794 - 1800) hội nguyên Trần Gia Du, thiếu tả giám Trần Công Bản đã mở rộng ra. Đến năm Kỷ Mão (1879) đời Tự Đức, quan huyện Lê Kỳ đã sửa lợp lại. Năm Thành Thái thứ 10 (1898) đền phủ bị hư hại nhiều vì mưa gió nên các quan huyện... cùng các bậc thân hào đứng ra sửa. Đến năm Thành Thái thứ 12 (1900) thì hoàn thành.
Ngũ Môn Phủ Vân Cát |
Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh:
Lăng được xây dựng vào thời Vua Minh Mệnh ( 1820 - 1840) với ban đầu chủ là một bệ nhỏ. Năm 1937, vua Bảo Đại hưng công xây dựng, tu bổ. "Tương truyền năm 1937, Vua Bảo Đại lấy vợ đã lâu nhưng không có con nên Nam Phương Hoàng Hậu đến cầu tự ở Đền Sòng và được Mẫu ban cho Hoàng Tử Bảo Long. Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã báo mộng cho Hoàng Hậu biết mộ của mình ở ngôi Miếu xứ cây đa Phủ Dầy.
Lăng Mẫu Liễu Hạnh |
Để trả ơn đó Vua Bảo Đại đã cho dựng lăng để tạ ơn Mẫu Liễu Hạnh. Khu lăng Mẫu được xây hoàn toàn bằng đá xanh và 60 búp sen hồng”.
Phủ Bóng- Nguyệt Du Cung
Phủ Bóng còn gọi là Nguyệt Du Cung. Tương truyền sau khi đã về trời, vào những đêm trăng sáng Liễu Hạnh công chúa lại dẫn một đoàn tiên nữ xuống quây quần múa hát bên gốc cây đa. Dân làng thầm lặng dõi theo dần dần nhận ra đây là điềm linh thiêng, linh ứng mới bàn nhau lập miếu thờ dưới gốc cây đa nên thường gọi là đền Cây Đa Bóng hay Phủ Bóng.
Sau đó những người thường thấy Tiên Chúa và tiên nữ múa hát dưới trăng lại đặt tên đền là Nguyệt Du Cung.
Tam Quan Phủ Bóng Nguyệt Du Cung |
Các lần giáng sinh của Mẫu Liễu Hạnh
Mẫu Liễu Hạnh có 3 lần giáng sinh:
+Lần thứ nhất bà giáng vào nhà họ Phạm ở Quảng Nạp, Vỉ Nhuế, Ý Yên Nam Định. Bà có tên Phạm Tiên Nga và hưởng thọ 40 tuổi.
+ Lần thứ hai bà giáng vào nhà họ Lê ở An Thái, Vụ Bản, Nam Định. Bà kết duyên cùng Trần Đào Lang, đến năm 21 tuổi thì về trời.
+ Lần thứ ba bà giáng hiện tại Nga Sơn, Thanh Hóa hạ trần để tái hợp cùng Mai Sinh là hậu kiếp của Trần Đào Lang được hơn một năm thì mãn hạn hồi tiên.
Quần thể di tích tâm linh Phủ Dày là nơi Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ hai và được coi là nơi thờ chính của Mẫu Liễu Hạnh.
Thần tích về sự giáng sinh của Mẫu Liễu Hạnh tại Phủ Dầy
Truyền thuyết kể rằng: Tại thôn Vân Cát có gia đình ông Lê Thái công, vợ là Trần Thị Phúc ăn ở hiền lành, chuyên lo việc thiện đức. Họ chính là đầu thai chuyển thế của cha mẹ họ Phạm của Mẫu ở Vỉ Nhuế năm xưa.
Phủ Vân Cát |
Khi hơn 40 tuổi, bà mới mang thai lần hai. Kỳ lạ là lần này đến kỳ mang thai này bà ông ăn được thịt cá, chỉ ăn hoa quả. Quá kỳ sinh nở mấy tháng mà không thấy sinh, ông Lê Thái Công tưởng ma quỷ nhiễu hại bèn mời thầy phù thủy về trừ tà nhưng bà vẫn không sinh.
Một ngày thượng tuần tháng tám, đêm thanh trăng tỏ, có một đạo nhân ăn mặc lạ kì xin vào chữa bệnh, Lê Thái công nghe thấy liền mời vào, thiết lập hương án. Đạo nhân xõa tóc hành pháp, rồi rút búa trong tay ném xuống đất. Thái công tức thì mê man và thiếp đi. Trong khi thiếp đi ông đã mơ được lên Thiên đường và thấy một nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần lỡ tay đánh rơi vỡ một chiếc chén ngọc của Ngọc Hoàng. Khi tỉnh mộng thì đã lúc canh tàn, bà đã sinh ra một nữ tử, hương thơm ngào ngạt, ai ai cũng lấy làm vui mừng. Mọi người nhhìn quanh thì không thấy đạo nhân đâu nữa.
Lễ Hội Phủ Dầy |
Khi đó là giờ Dần ngày 15 tháng 8 năm Đinh Tỵ niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên triều vua Lê Anh Tông (1557). Ông Thái công mới đặt Tiên chúa tên Thắng hiệu Giáng Tiên.
Giáng Tiên lớn lên trở thành một người con gái sắc đẹp tuyệt trần, nết na ưa nhìn, hiền lành thục nữ, trần gian hiếm có người nào như vậy. Không những vậy kinh văn sách sử, học vấn của Người cũng uyên thâm khó bậc nam nhi nào sách so được. Cầm, kì, thi, họa mọi thứ Người đều am tường thấu tỏ tường tận.
Một hôm nhân nghe tiếng đàn của Tiên chúa gẩy, chợt Thái công nhớ tiếng đàn này giống tiếng đàn năm xưa khi ông nằm mộng lên Thiên đình, nghĩ con gái mình chắc chắn là người nhà trời, sợ rằng sẽ khó nuôi, nên đem cho ông Trần Công làm nghĩa nữ.
Ngày xuân ở Phủ Tiên Hương |
Có hai vợ chồng ông Trần lão quan gần làng bên, không con cháu, một hôm dạo chơi gió mát trăng thanh, tự nhiên thấy ai bỏ một đứa trẻ ở bên gốc đào, ông Trần lão quan mới đem về nuôi đặt tên là Trần Đào Lang.
Đến năm Quý Dậu (1573) Gia Thái nguyên niên triều Lê Thế Tông, chàng Đào Lang 21 tuổi, đức Tiên chúa 17 tuổi, nhân lúc Trần Đào Lang sang nhà Trần lệnh công, thấy Tiên chúa đẹp tuyệt trần lại tài hoa vẹn đủ mới đem lòng yêu mến, mới đến cầu hôn.
Thoạt đầu, Tiên chúa không ý định thành hôn, chỉ muốn ở với mẹ cha phụng dưỡng, nhưng sau đó cha mẹ vun vào, và cũng cảm mến chàng Đào hiếu học, Tiên chúa đồng ý và hôn lễ được tác thành khi Tiên chúa 18 tuổi.
Ngày xuân ở Phủ Vân Cát |
Về gia đình chồng, luôn giữ phép với cha mẹ chồng, giữ đạo vợ chồng, cuộc sống hạnh phúc và hai người đã khai sinh ra một nam tử đặt tên Trần Nhân, cảnh gia đình thật vui vầy sướng ca.
Nhưng mãn hạn cõi trần gian, Tiên chúa không bệnh mà mất, hưởng dương được 21 tuổi, Chúa hồi loan vào giờ Dần ngày 03 tháng 03 năm Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái ngũ niên triều vua Lê Thế Tông (1577).
Phủ Vân Cát
Phủ Vân Cát là một di tích chính nằm trong Quần thể du lịch tâm linh Phủ Dầy. Phủ Vân Cát nằm ở phía bắc thôn Vân Cát thuộc xã Kim Thái, cách Phủ Tiên Hương chừng 1 km. Từ Phủ Tiên Hương đi thẳng tới ủy ban nhân dân xã Kim Thái, bên phải đi tới Lăng Mộ Thánh Mẫu, còn đi về bên trái là đi tới Phủ Vân Cát.
Khu di tích tâm linh Phủ Dầy là nơi tâm linh gắn liền với sự giáng sinh lần thứ hai của Mẫu Liễu Hạnh. Tại Phủ Dầy, phủ Tiên Hương là nơi thờ chính của Mẫu, gắn liền với quê chồng của Mẫu. Phủ Vân Cát là nơi thờ bên ngoại của Mẫu tức là nơi Mẫu được sinh ra. Riêng thân phụ và thân mẫu của Mẫu được thờ tại Phủ Tổ.
Lịch sử Phủ Vân Cát
Đền được xây dựng từ thời vua Lê Cảnh Thịnh (1663 - 1671). Khoảng đời Cảnh Thịnh (1794 - 1800) hội nguyên Trần Gia Du, thiếu tả giám Trần Công Bản đã mở rộng ra. Đến năm Kỷ Mão (1879) đời Tự Đức, quan huyện Lê Kỳ đã sửa lợp lại. Năm Thành Thái thứ 10 (1898) đền phủ bị hư hại nhiều vì mưa gió nên các quan huyện... cùng các bậc thân hào đứng ra sửa. Đến năm Thành Thái thứ 12 (1900) thì hoàn thành.
Kiến trúc Phủ Vân Cát
Phủ Vân Cát là một công trình kiến trúc quy mô, được xây biệt lập trên một khu đất rộng gần một hecta. Phủ Vân Cát quay về hướng Tây Bắc, trước mặt là cánh đồng lúa. Kiến trúc phủ Vân theo kiểu “nội trùng thiêm, ngoại chữ quốc”, nghĩa là các toà nhà chính bên trong song song chung thềm, hai bên có hành lang nhà ngang, mặt trước có ngọ môn khép kín.
Mái phủ cổ kính của Phủ Vân Cát |
Tuy bị hư hỏng nặng, nhưng đến nay Phủ Vân vẫn còn bảy toà với ba mươi gian lớn nhỏ. Cung Đệ Nhất mái cong, làm theo kiểu chồng diêm tám mái. Trên các thành phần kiến trúc được chạm khắc phượng múa theo nhiều dáng, “quy” (rùa) ẩn hiện nơi ao sen, bầy “ly” vui đùa uốn lượn ở các góc xà, đầu bẩy...
Tượng Ngũ Vị tôn Ông trong Phủ Vân Cát |
Hệ thống cửa Ngọ môn xây dựng theo kiểu chồng diêm ba tầng, với hàng chục cột trụ, năm gác lâu, tường bao quanh, nhiều văn bia được đặt dưới Ngọ Môn, ghi chép về việc Bà chúa Liễu giáng sinh và sự đóng góp tiền của những người hảo tâm xây dựng đền. Phía ngoài Ngọ Môn có hồ bán nguyệt, giữa hồ là thủy lâu, ba gian, mái cong. Công trình này được gia công rất công phu, từ viên đá ghép móng, hệ thống lan can chung quanh hồ với các họa tiết “tứ linh”, “tứ quý”, đến hai cầu đá bắc qua hai đầu hồ vào thủy lâu cũng thể hiện tài nghệ của các nghệ nhân xưa.
Một góc của Ngũ Môn của Phủ Vân Cát |
Nội phủ có bốn cung. Cung đệ nhất và cung đệ nhị đều ba gian, được tôn tạo và mở rộng từ đời Tự Đức năm Kỷ Mão (1879). Cả hai cung này đều bị giặc Pháp phá hủy bằng ném bom, năm 1959 dân làng xây dựng lại cung đệ nhất còn cung đệ nhị mới được tôn tạo lại năm 1992. Cung đệ nhất là chính cung khép kín, cung này thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, tượng bằng đồng gồm có Mẫu Thượng Thiên ngồi giữa, Mẫu Thượng Ngàn bên trái, Mẫu Thoải bên phải. Cung đệ nhị thờ Tứ vị chầu Bà và Tam tòa quan lớn, đặc biệt có hai khám hai bên thờ Ông Hoàng Mười (bên phải) và Ông Hoàng Ba (bên trái). Tiếp là cung đệ tam, tại đây thờ Công đồng tứ Phủ, cung này có thờ Bà Chúa Bản đền. Cung đệ tứ hay còn gọi là tòa bái đường, cung này có thờ Quan Giám sát.
Một cung thờ trong Phủ Vân Cát |
Trong Phủ còn lưu giữ được nhiều câu đối, đại tự, hoành phi có giá trị. Ngoài ra, hệ thống văn bia ở Phủ Vân Cát rất có giá trị về lịch sử đặt dưới ngũ vân lâu ba tầng ở mặt tiền. Cùng với hệ thống đồng trụ tường hoa khiến tổng công trình nội trùng thiềm, ngoại chữ quốc ở đây bố cục chặt chẽ – là di tích xếp hạng di tích lịch sử quốc gia.
Khi chúng ta đã đến thắp hương tại Phủ Vân Hương chúng ta có đi qua Phủ Tổ. Phủ Tổ là một ngôi đền đặc sắc bằng đá thờ thân phụ và thân mẫu của Mẫu Liễu Hạnh.