Trang

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2017

Quan Hoàng Đôi Triệu Tường

        Quan Hoàng Đôi, còn gọi là Quan Hoàng Đôi Triệu Tường, Quan Hoàng Triệu Tường. Quan Hoàng Đôi có hai đền chính là Đền Triệu Tường ở chân núi Triệu Tường ở thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa là Đền Hoàng tại bờ sông Hồng thuộc Liên Mạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
       
        Quan Triệu Tường là ai?

       Theo truyền thuyết của  tín ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam Quan hoàng Triệu Tường là con của Vua cha Ngọc Hoàng được sai xuống trần đầu thai vào làm con trai nhà họ Nguyễn ở đất Thanh Hóa. Ngài là một vị tướng toàn tài, hay kinh sử, nhuần binh thư. Ngài là một vị trung thần thời Lê có nhiều công lao trong việc "Phù Lê diệt Mạc" và mở mang bờ cõi nước Nam. Ông Hoàng Triệu đứng thứ hai trong Tứ Phủ Quan Hoàng.
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng
      Theo các sách “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Đại Nam thực lục” và các nghiên cứu của giáo sư sử học Trần Quốc Vương, Giáo sư Ngô Đức Thịnh thì Quan Hoàng Triệu chính là Nguyễn Hoàng - Thủy tổ của 9 đời Chúa Nguyễn và 13 đời vua Nguyễn.
       Nguyễn Hoàng là người Gia Miêu, Hà Phong, Hà Trung, Thanh Hóa ngày nay. Ngài sinh năm Ất Dậu 1525, là con trai thứ hai của một công thần triều Lê là Nguyễn Kim. Khi Nguyễn Hoàng được hai tuổi, Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê. Trong số các trung thần nhà Lê chạy sang những nước láng giềng lánh nạn, chờ cơ hội thuận lợi sẽ kéo quân trở về phục hận cho nhà Lê, có quan Hữu Vệ Điện Tiền Tướng quân An Thanh Hầu Nguyễn Kim. Ông chính là cha đẻ của Nguyễn Hoàng.
      Khi chạy sang Ai Lao, Nguyễn Kim được vua Xạ Đẩu giúp đỡ, cho mượn đất Sầm Châu để dựng bản doanh, chiêu mộ quân binh phù Lê diệt Mạc. Được tạo điều kiện thuận lợi, Nguyễn Kim lập tức tìm kiếm con cháu nhà Lê để lo việc khôi phục. Cuối cùng, ông đã tìm được Hoàng thất Lê Duy Ninh, tôn lên làm vua, hiệu là Lê Trang Tông.
      Vua Lê Trang Tông đã giao hết binh quyền cho Nguyễn Kim và phong ông làm Thái sư, tước Hưng Quốc Hầu. Dưới trướng Nguyễn Kim quy tụ nhiều tướng trẻ tài ba, nổi bật lên cái tên Trịnh Kiểm, sau này trở thành con rể của ông.
       Với sự phò tá hết mình của Nguyễn Kim và quân sĩ, thế lực nhà Lê đã áp đảo họ Mạc. Trước tình thế này, Quan Tổng Trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đã dùng ngụy kế, xin hàng, giả vờ thuần phục, lấy được lòng của vua Lê và qua mặt Nguyễn Kim. Vị trung thần Nguyễn Kim không thể ngờ kẻ bá vai chén tạc chén thù với mình đã ra tay hạ độc, khiến ông chết trong đau đớn.
      Vua Lê Trang Tông không có người nối dõi,  mọi quyền hành của nhà Lê đều nằm gọn trong tay Trịnh Kiểm. Khi Lê Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập cháu 4 đời của vua Lê Lợi là Duy Ban làm vua Lê Anh Tông. Lúc này, con trai trưởng của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông đã được phong Tả Tướng. Những người thân tín của Nguyễn Kim tính đến khả năng chuyển giao quyền hành lại cho Nguyễn Uông. Vì thế, Nguyễn Uông  đã trở thành cái gai trong mắt Trịnh Kiểm.
     Một hôm, Nguyễn Uông bỗng nhiên lăn đùng ra chết. Người em Nguyễn Hoàng linh cảm đây là một âm mưu diệt cỏ tận gốc, ông lo ngại bản thân mình sẽ là đối tượng bị hạ sát tiếp theo của màn kịch chính trị, Nguyễn Hoàng liền bí mật sai người tới hỏi Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm về kế sách giữ mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm, chỉ ngắm hòn non bộ và ngâm:
“Hoành Sơn nhất đái,Vạn đại dung thân”
    Nghĩa là một dải Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời. Người thân cận khi về chỉ kể lại như vậy. Hiểu ý, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái là Ngọc Bảo nói với Trịnh Kiểm tâu lên vua Lê để xin vào trấn đất Thuận Hóa.
       Sau chuỗi ngày dong duổi, đoàn quân Nam tiến dừng chân ở cửa Việt Yên (nay là Cửa Việt). Cũng chính nơi đây, Nguyễn Hoàng đã cho quân binh của mình đóng trại ở Gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Đăng Xương (nay thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).
      Miền đất Thuận Hóa lúc bấy giờ hoang sơ, nguyên bản, và nghèo nàn, tạo điều kiện cho bọn cướp biển, giặc cỏ hoành hành. Không những thế, Nguyễn Hoàng còn phải đối mặt với các lực lượng  quân nhà Mạc, Chiêm Thành, Chân Lạp thường xuyên đánh phá. Chinh phục mảnh đất này quả là một thử thách lớn với Nguyễn Hoàng.
       Thế nhưng, ngày từ lúc mới đặt chân đến đây, Nguyễn Hoàng đã hội tụ được yếu tố “nhân hòa”:  Lưu thủ Thuận Hóa – Tống Phướng Trị đã tìm đến để vái chào Nguyễn Hoàng , và dâng lên cho Nguyễn Hoàng bản đồ và sổ sách trong xứ, xin được một lòng phò tá. Nhân dân địa phương cũng hết sức vui mừng khi hay tin có một vị quan lớn vào trấn thủ xứ sở của mình, nên đã đón tiếp quan Trấn thủ vô cùng trọng thể. Từ đây, Nguyễn Hoàng được tôn xưng ở ngôi vị Chúa Nguyễn.
       Với quyết tâm cải hóa miền đất này, vị chúa Nguyễn đầu tiên đã có những chính sách rất hợp lí nhờ tài tổ chức của mình và sự giúp sức của các quan dưới trướng, đặc biệt là Thái phó Nguyễn Ư Dĩ.
       Nguyễn Hoàng đã cho dân tự do khai hoang lập hóa. Người nào khai khẩn được bao nhiêu thì được quyền sở hữu đất ấy, và cũng chính nhờ vào chính sách khuyến khích cùng với sự giúp đỡ của chính quyền trong việc khai hóa đất đai mà lãnh thổ dần dần được rộng. Năm 1597, Nguyễn Hoàng  cử Lương Văn Chánh dẫn đầu đội ngũ khoảng 4000 lưu dân vào khai khẩn vùng đất từ đèo Cù Mông (Bắc Phú Yên) đến đèo Cả (Bắc Khánh Hòa). Chuyến khai hoang này hình thành nên những làng mạc đầu tiên trên châu thổ sông Đà Diễn, sông Cái.
       Đồng thời, Nguyễn Hoàng cũng chú trọng việc chiêu mộ hiền sĩ. Ông còn giảm bớt gang nặng cho dân bằng cách giảm thuế, việc sai dịch cũng được hạn chế tối đa, chỉ trừ những trường hợp thực sự cấp bách.

      Nguyễn Hoàng và các cuộc chiến sát nhập vùng đất mới

    Năm 1578, Chiêm Thành cất quân đến quấy nhiễu, vâng lệnh chúa Nguyễn Hoàng,  Lương Văn Chánh mang quân tiến đến sông Đà Diễn, Hoa Anh đánh chiếm thành An Nghiệp, là một trong những kinh thành đồ sộ và kiên cố nhất trong lịch sử Chăm Pa.

Bản đồ Việt Nam vào thời Nguyễn Hoàng năm 1611

      Năm 1611, Chiêm Thành tiếp tục càn quấy vùng biên giới Hoa Anh. Lần này,  chúa Nguyễn cử tướng Văn Phong đi dẹp. Vua Chiêm Thành-  Po Nit thua trận phải rút quân xuống phía Nam đèo Cả. Kết quả là Hoa Anh trở thành phủ Phú Yên gồm hai huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân được sáp nhập vào nước Nam.
     Còn một khu vực “nóng” được bổ sung vào quỹ lãnh thổ không thể không nhắc đến đó là quần đảo Hoàng Sa. Lịch sử không ghi chép rõ thời gian, chỉ biết hai gia tướng người Việt gốc Chăm của Tĩnh Công Nguyễn Kim là Vũ Thì An và Vũ Thì Trung đã giúp Nguyễn Hoàng chiếm hữu Bãi Cát Vàng (tên gọi thời đó của Hoàng Sa)
      Còn các vùng đất miền nam ngày nay của nước Nam Bàn và Chân Lạp (Campuchia) là do các chúa Nguyễn đời sau chinh phạt mà sáp nhập.
     Năm 1613, Chúa tiên Nguyễn Hoàng lâm bệnh nặng, ông cho gọi người con thứ sáu của mình là Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên từ Quảng Nam về để kế vị và căn dặn:
     "Nếu Bắc tiến được thì tốt nhất, bằng không giữ vững đất Thuận Quảng và mở mang bờ cõi về phía nam. Đất Thuận Quảng này phía bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn, thật là đất của người anh hùng dụng võ. Vậy con phải biết thương yêu dân, luyện tập binh sĩ để xây dựng cơ nghiệp muôn đời".
   
Mộ Nguyễn Hoàng ở Lăng Trường Cơ
          Nguyễn Hoàng trấn thủ đất Thuận Quảng 40 năm, thọ 89 tuổi, vua Lê ban tước Cẩn nghĩa công, thụy là Cung Ý. Ban đầu mộ của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng táng ở vùng núi Thạch Hãn, huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong(nay thuộc huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị), về sau được cải táng lăng mộ chuyển về Núi La Khê tức Khải Vận Sơn (nay thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế). Ban đầu Chúa Tiên Nguyễn Hoàng được thờ tại Chùa Long Phước (nay thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị), về sau được Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên phối thờ cùng Tĩnh Công Nguyễn Kim tại Chùa Thiên Mụ ở Phú Xuân (nay là Thành phố Huế) Năm 1804, vua Gia Long (1780 – 1820) cho dựng Thái Miếu rộng mười ba gian để thờ các Chúa Nguyễn và các công thần đời trước, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng cùng Hoàng hậu được thờ ở chính giữa. Vua Gia Long hoàng đế nhà Nguyễn truy phong cho Nguyễn Hoàng miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu là Triệu Cơ Tùy Thống Khâm Minh Cung Úy Cần Nghĩa Đạt Lý Hiển Ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ hoàng đế và miếu hiệu là Thái Tổ.

      Công lao của Quan Hoàng Đôi Triệu Tường

      Quan Hoàng Triệu Tường chính là Nguyễn Hoàng, thủy tổ của các các Chúa Nguyễn và các Vị Vua Nguyễn. Ngài là vị nhân thần có nhiều công lao trong sự nghiệp xây dựng và mở mang bờ cõi mở đầu cho việc hùng cứ phương nam của 9 chúa Nguyễn, tạo tiền đề cho việc thành lập Vương triều Nhà Nguyễn trải qua 13 đời vua.

Tượng Quan Triệu Tường tại Đền Quan Liên Mạc
       Nhà Nguyễn, bao gồm cả các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn, đã để lại một di sản lớn lao nhất cho dân tộc là một giang sơn đất nước trải rộng trên lãnh thổ thống nhất từ Bắc chí Nam, bao gồm cả đất liền và các hải đảo trên biển Đông.
        Trên lãnh thổ đó là một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới từ 11/12/1993 và đến ngày 07/11/2003 Nhã nhạc cung đình Huế lại được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Hội An cũng là một cảng thị tiêu biểu và khu di tích phố cổ Hội An cũng đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào ngày 04/12/1999. Chưa có một thời kỳ lịch sử nào để lại cho dân tộc ba di sản văn hóa được thế giới công nhận và tôn vinh với những giá trị mang ý nghĩa toàn cầu như vậy.
       Khi sinh thời Ngài là một vị tướng lĩnh, một vị quan lớn, một vị Chúa tài năng, đức độ, trí dũng song toàn có nhiều công lao to lớn và căn bản với đất nước. Khi mất Ngài là một vị Nhân thần anh linh luôn phù hộ cho nhân dân và xã tắc, đó là Quan Hoàng Triệu Tường – ngài Nguyễn Hoàng, đức Thái tổ Gia dụ Hoàng đế, vị Chúa và là vị Nhân thần mãi trường tồn trong đời sống tâm linh của nhân dân và luôn được khắc ghi những công lao to lớn của Ngài trong lòng dân tộc Việt Nam.
       Như vậy, có thể nói Quan Hoàng Đôi là vị thánh, là vị anh hùng dân tộc vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.
      Trong suốt 55 năm cai trị, Ngài luôn biết nhẫn nhịn để chờ đợi thời cơ để lập chí lớn, gây dựng cơ nghiệp lâu dài để lại cho con cháu mai sau. Ngài vừa là một vị tướng mưu lược kiệt xuất, vừa là một vị Chúa khôn ngoan có lòng nhân đức, thu phục hào kiệt, vỗ về dân chúng và lo phát triển kinh tế, mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía nam để tạo nên một nước Việt Nam rộng lớn và hùng mạnh ngày nay.
         Ngài là người có tầm nhìn của một nhà chiến lược xuyên thế kỷ: Ngài hướng ra Bắc mong khôi phục nhà Lê, hướng vào Nam để mở mang bờ cõi; hướng ra các đảo trên biển Đông xác lập chủ quyền quốc gia; mở mang giao thương quốc tế, lập nên các khu thương mại tự do để làm cho Đàng Trong giầu mạnh; tin dùng người hiền tài, vỗ về khoan thư sức dân cho nên Ngài được dân chúng Thuận Quảng cảm mến, thường gọi Ngài là Chúa Tiên.

      Lịch sử Đền Quan Triệu Tường Thanh Hóa

       Đền Triệu Tường, còn gọi là Đền Quan Triệu hay đền Đức Ông. Trải qua những thăng trầm của thời cuộc, ngôi đền đã bị tàn phá vào những năm 1960. Toàn bộ kiến trúc và những giá trị lịch sử - văn hóa đi theo của ngôi đền đã bị phá hủy hoàn toàn. Ngôi đền được phục dựng lại vào những năm 1990, nhưng những giá trị văn hóa trong ngôi đền cũ đã mãi mãi mất đi khó có thể tìm lại được, một trong những giá trị đó là những thần phả, thần tích và sắc phong nói lên lịch sử ngôi đền và tiểu sử, công tích của Quan Hoàng Triệu Tường.

Đền Quan Triệu Tường Thanh Hóa
      Như vậy, đền Triệu Tường Thanh Hóa là nơi quê hương của Ngài và đươc gắn liền với vùng đất Ngài được phong công, phong chức của vua Lê.

       Truyền thuyết Đền Quan ở Liên Mạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội

      Theo truyền thuyết: Sau khi, Nguyễn Hoàng đánh đuổi nhà Mạc đến vùng bờ sông Liên Mạc (nay là đất đền Quan Hoàng). Nhà Mạc thua trận, Vua Mạc cùng quần thần, quân lính đã tháo chạy qua sông. Nhưng quân của Nguyễn Hoàng không đủ thuyền bè để đuổi theo, Ngài liền cho quân lính đóng trại lại tại đó. Một mặt, lo tiếp ứng thuyền bè, một mặt lo luyện tập binh sĩ, chuẩn bị quân lương để huyết chiến với quân quan nhà Mạc. Sau khi chuẩn bị xong, Nguyễn Hoàng cùng đoàn quân quan vượt sông và tử chiến với quân nhà Mạc tại vùng xã Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay. Theo truyền thuyết tại xã Nam Sơn đã xẩy ra một cuộc chiến đẫm máu và cam go. Quân quan nhà Mạc đã anh dũng chiến đấu dưới sự lãnh đạo của 18 vị Quận Công và cầm chân được quân của Nguyễn Hoàng để vua quan nhà Mạc kịp trốn chạy về Cao Bằng. Biết đoàn di đô của vua nhà Mạc đã trốn chạy an toàn, biết không thể chiến đấu được nữa, quân lính trung thành với vua Mạc và cùng với 18 vị Quận Công đã tuẫn tiết xuống hồ Hàm Lợn. Nay ven hồ Hàm Lợn còn một ngôi đền nhỏ thờ 18 vị Quận Công anh dũng.

Mái Lầu Bát giác tại Cung Mẫu tại Đền Quan Hoàng Liên Mạc
       Như vậy, Đền Quan Hoàng ở Liên Mạc được gắn liền với cuộc chiến đấu "Phù Lê diệt Mạc" của Nguyễn Hoàng. Sau khi chiến thắng tại Nam Sơn, quân Nguyễn Hoàng đã đuổi nhà Mạc đến tận đất Cao Bằng. Với chiến công này Nguyễn Hoàng được vua Lê phong công, phong tước.

        Lịch sử đền Quan Hoàng ở Liên Mạc

       Đền Quan Hoàng Triệu ở Liên Mạc còn được gọi là Đền Quan Hoàng Triệu Chèm, nhưng thường được gọi tắt là Đền Hoàng. Theo thông tin của Đạo lưu (pháp sư) Nguyễn Thành Công của nhà đền thì ngôi đền này được xây dựng từ rất xa xưa, nhưng từ bao giờ thì không rõ. Thủ nhang hiện nay là bà Phạm Thị Xuân đã ba đời quản lý ngôi đền này. Trước đây, vào thời bà nội của bà Phạm Thị Xuân là thủ nhang, ngôi đền còn đơn giản lắm, chủ yếu là tranh nứa lá. Sang đời bố của bà là ông Phạm Văn Hải ngôi đền được tu bổ khang trang bằng nhà gỗ. Tuy nhiên, vào những năm 80 của thế kỷ 20, ngôi nhà gỗ bị mối mọt. Cụ Hải đã cùng bà con phát tâm công đức xây dựng lại ngôi đền bằng gạch và bê tông. Ngôi đền khi đó gồm có 4 cung: Ngoài cùng là cung thờ phật, cung thứ hai là cung Công đồng tứ phủ, cung thứ ba là cung Quan Hoàng Triệu và Đức Thánh Trần, cung cuối cùng là cung thờ Mẫu.

Khung cảnh Đền Quan Hoàng Triệu ở Liên Mạc
       Vào năm 2008 đến năm 2010, dưới sự là quyết tâm của Đạo lưu Nguyễn Thành Công và Thủ nhang Phạm Thị Xuân cùng các bản hội, con nhang, đệ tử đã cho bỏ cung Mẫu cũ để xây dựng thành cung Mẫu mới uy nghi, tố hảo lên rất nhiều lần.

Mặt trước Đền Quan Hoàng Triệu tại Liên Mạc
       Hiện nay, đền Mẫu có cung: Cung bên phải là cung Sơn Trang, bên trái là cung thờ Chầu bà Thủ đền, Tam Tòa Chúa Bói và Bà Chúa Kho.

Sự lung linh của cung Mẫu tại Đền Quan Liên Mạc
      Cung ở giữa hiện phối thờ như sau: Trên cùng và trong cùng là Phật Bà Quan Âm, tiếp theo là Tam Tòa Thánh mẫu, Mẫu Cửu Trùng Thiên.

Đền Thờ Mẫu tại Đền Quan Hoàng Liên Mạc
      Phía trước, mặt đền hướng nhìn ra sông Hồng là lầu Bát Giác ở trên cao đặt tượng Phật Bà Quan Âm bằng đá trắng được đẽo gọt từ Đà Nẵng.

Dòng sông Hồng thơ mộng phía trước của mặt cung Mẫu
        Nghe nói, đây là ngôi tượng được một đệ tử cung tiến. Đệ tử này, có một thời làm ăn rủi ro, khó khăn đã đến cầu xin Ngài phù hộ để vượt qua khó khăn và đã được toại nguyện mỹ mãn.

Đạo Lưu Nguyễn Thành Công và tượng Phật Bà Quán Âm tại Lầu Bát Giác.
      Thay cho lời kết

      Nguyễn Hoàng là một anh hùng kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, đó là tướng tài đầy mưu trí, kiến thức uyên sâu, văn võ song toàn, chí khí vĩ đại; một vị chúa anh minh, biết trọng dụng hiền tài, biết đến lợi ích muôn dân. Dưới sự cai trị của ngài thông thương trong nước và nước ngoài đều được phát triển. Nhờ có Người, nhờ tài thao lược của Người và con cháu của Người đất nước chúng ta mới được mở mang rộng lớn như hôm nay. Ngài được phong thánh trong Tứ Phủ và được coi là hiện thân giáng trần của Quan Hoàng Đôi. Đền của Ngài rất thiêng cho những ai cầu công danh, sự nghiệp, thi cử học hành, kinh doanh. Rất tiếc rằng, do sự nhạy cảm về lịch sử (xâm lấn đất đai nước khác) nên các đền của Ngài chưa được nhà nước quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, với những người hiểu lịch sử thì luôn coi Ngài là vị thánh anh linh và linh thiêng bậc nhất trong Tứ Phủ Quan Hoàng. 
       Cũng xin lưu ý thêm: Có tài liệu ghi hiện thân của Quan Hoàng Đôi là Nguyễn Hoàng Triệu là không đúng. Có lẽ sự nhầm lẫn này là do Nguyễn Hoàng sinh ra ở Triệu Tường nên hay gọi là Quan Hoàng Triệu nên lầm tưởng ông tên là Hoàng Triệu.